Phó trưởng đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Ma Thị Thúy đề xuất tăng mức giảm trừ gia cảnh linh hoạt, điều chỉnh tự động theo CPI trong Luật Thuế thu nhập cá nhân

Chiều ngày 5/11, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã thảo luận tổ về các dự án: Luật Quản lý thuế (sửa đổi), Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) và Luật Tiết kiệm, chống lãng phí. Tổ thảo luận số 16 do đồng chí Lý Thị Lan, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách tỉnh Tuyên Quang chủ trì, bao gồm các đại biểu Cao Bằng, Đà Nẵng và Tuyên Quang.

Đồng chí Lý Thị Lan, Trưởng Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách tỉnh chủ trì phiên thảo luận

Tham gia thảo luận về dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân, đại biểu Ma Thị Thúy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách tỉnh, quan tâm góp ý vào quy định tại Điều 10 (Giảm trừ gia cảnh): Đại biểu cơ bản đồng tình với việc tiếp tục quy định giảm trừ gia cảnh trong Luật, song cho rằng Thuế thu nhập cá nhân quy định mặt bằng chung cho các đối tượng là không phù hợp. Việc điều chỉnh cần bảo đảm công bằng, hợp lý và sát thực tế.

Theo đại biểu, nguyên tắc cần bảo đảm khi quy định mức giảm trừ bao gồm: Công bằng, hợp lý: Mức giảm trừ phải phản ánh đúng điều kiện sống của người nộp thuế ở từng vùng nông thôn và thành thị, nhất là nhóm có thu nhập trung bình và thấp; phù hợp với nguyên tắc thuế thu nhập cá nhân dựa trên khả năng nộp thuế; phải gắn với thực tế giá cả và lạm phát: Nhiều năm qua mức giảm trừ chưa được điều chỉnh, trong khi chi phí sinh hoạt, giáo dục, y tế… tăng cao. Điều này làm giảm ý nghĩa bảo đảm công bằng của thuế.

Đại biểu Ma Thị Thúy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách tỉnh phát biểu ý kiến

Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh đề nghị tăng mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế và cho người phụ thuộc theo hướng linh hoạt, quy định mức giảm trừ gia cảnh cao hơn đối với từng nhóm phụ thuộc đặc thù như con đang học đại học cao đẳng, người phụ thuộc là người khuyết tật, bệnh nặng, người mất khả năng lao động thì có mức riêng, trẻ dưới 18 tuổi, phân loại người phụ thuộc rõ hơn, tránh bất cập trong xác định: Không nên cào bằng giữa người phụ thuộc như vậy cần có cơ chế xác định, kê khai đơn giản, thuận lợi, có thể rà soát định kỳ 2-3 năm/lần.

Về cơ chế điều chỉnh, đại biểu đề nghị quy định cơ chế tự động điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh khi CPI (chỉ số giá tiêu dùng) biến động vượt ngưỡng nhất định, thay vì phải chờ sửa luật. Đồng thời, nên giao Chính phủ quy định chi tiết và cập nhật định kỳ để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ.

Thảo luận vào dự thảo Luật Tiết kiệm, chống lãng phí, đại biểu Ma Thị Thúy quan tâm góp ý một số nội dung, cụ thể:

Tại Điều 1 (Phạm vi điều chỉnh) và Điều 2 (Đối tượng áp dụng):  Theo đại biểu, nội dung quy định như dự thảo luật có phạm vi rất rộng, không khả thi, vượt khả năng quản lý, kiểm soát trực tiếp của Nhà nước, tiềm ẩn nguy cơ chồng chéo, trùng lặp với các quy định của pháp luật chuyên ngành (như Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật Bảo vệ môi trường …); đồng thời dễ dẫn đến sự can thiệp sâu vào quyền tự do cá nhân, quyền sở hữu tài sản và quyền tự chủ kinh doanh được Hiến pháp bảo hộ. rất khó lượng hóa “lãng phí” trong phạm vi tiêu dùng cá thể của xã hội và xác định nghĩa vụ pháp lý để xử lý. Do đó, đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu, rà soát, xác định lại ranh giới hợp lý của phạm vi điều chỉnh, theo hướng tập trung điều chỉnh khu vực nhà nước, nơi có sử dụng, quản lý nguồn lực công; đối với khu vực tư nhân, hộ gia đình, cá nhân chỉ nên quy định ở mức độ khuyến khích, tuyên truyền, vận động thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tránh đặt ra các nghĩa vụ pháp lý hoặc chế tài hành chính khó thực thi.

Về giải thích từ ngữ: đại biểu đề nghị nghiên cứu bổ sung, chỉnh lý nội dung tại khoản 1 và 2, Điều 5 để thể hiện rõ tiêu chí đánh giá “sử dụng hiệu quả các nguồn lực” là yếu tố cốt lõi của cả khái niệm tiết kiệm và lãng phí. Đồng thời, bổ sung quy định trách nhiệm đánh giá kết quả sử dụng nguồn lực công theo tiêu chí hiệu quả và mục tiêu đạt được, không chỉ dựa vào mức chi tiêu so với định mức.

Về cung cấp, xử lý thông tin phát hiện lãng phí và bảo vệ người đấu tranh chống lãng phí (Điều 7): Đề nghị bổ sung quy định về bảo mật danh tính, thông tin cá nhân của người cung cấp và người thân, cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin, tránh bị tiết lộ, trả thù hoặc trù dập, tương tự như các quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Tố cáo. Đồng thời, bổ sung trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận thông tin trong việc giữ bí mật và chịu trách nhiệm nếu để lộ, làm lộ danh tính người cung cấp. Theo đó, bổ sung vào Điều 7 dự thảo Luật một khoản mới như sau: “Người cung cấp thông tin phát hiện lãng phí có quyền được thông báo kết quả xử lý thông tin; cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận thông tin có trách nhiệm bảo mật danh tính, thông tin cá nhân của người cung cấp và người thân của họ, trừ trường hợp người cung cấp đồng ý công khai”.

Về nội dung công khai về tiết kiệm, chống lãng phí (Điều 12) và hình thức công khai về tiết kiệm, chống lãng phí (Điều 13): đại biểu đồng tình với quy định yêu cầu công khai hành vi gây lãng phí và kết quả xử lý, kèm theo thông tin về cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm. Tuy nhiên, để bảo đảm tính kịp thời và minh bạch, đề nghị bổ sung quy định cụ thể về thời hạn công khai các nội dung liên quan đến tiết kiệm, chống lãng phí: Đối với kết luận thanh tra, kiểm toán hoặc quyết định xử lý hành vi gây lãng phí: cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải công khai trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ban hành kết luận hoặc quyết định xử lý; đối với báo cáo kết quả thực hiện chương trình tiết kiệm, chống lãng phí, cần quy định thời điểm công khai định kỳ hằng năm, gắn với kỳ báo cáo trước cơ quan có thẩm quyền; quy định thời hạn rõ ràng giúp ngăn ngừa tình trạng chậm công khai hoặc né tránh trách nhiệm, đồng thời tạo điều kiện cho cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan theo dõi, giám sát.

Cùng góp ý về dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi), đại biểu Tráng A Dương (Ủy viên Chuyên trách tại Hội Đồng Dân tộc của Quốc hội) bày tỏ sự đồng tình với sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật sau gần 20 năm thực hiện. Đại biểu cho rằng, mặc dù đã qua 7 lần sửa đổi, nhưng luật vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện để thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng tại các nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và Quốc hội, khắc phục các vướng mắc phát sinh trong thực tiễn.

Đại biểu Tráng A Dương. Ủy viên Chuyên trách tại Hội Đồng Dân tộc của Quốc hội tham gia ý kiến

Về thu nhập chịu thuế (Điều 3): Đề nghị bổ sung thu nhập từ chuyển nhượng biển số xe gắn máy, xe mô tô trúng đấu giá theo quy định pháp luật, bởi nếu chỉ quy định biển số xe ô tô thì sẽ bỏ lọt trường hợp đối với các phương tiện khác và không thống nhất với Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đây là luật chuyên ngành quy định về loại tài sản/thu nhập này. Do vậy, viết lại điểm c khoản 10 dự thảo như sau: “Thu nhập từ chuyển nhượng biển số xe ô tô, biển số xe gắn máy, xe mô tô trúng đấu giá theo quy định của pháp luật”.

Về thu nhập được miễn thuế (Điều 4): theo đại biểu, quy định tại khoản 18 đang có sự xung đột pháp luật với loại thu nhập chịu thuế được quy định tại điểm a khoản 7 Điều 3 dự thảo Luật về thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Nếu cùng để cả 2 quy định này mà không có quy định loại trừ sẽ xảy ra chồng chéo, ảnh hưởng đến áp dụng thực thi pháp luật, nhất là việc tính thuế tại quy định tại khoản 2 Điều 17 dự thảo, không xác định rõ được quy định nào được tính thuế và được miễn thuế khi đều thuộc lĩnh vực chuyển giao công nghệ. Do đó, đề nghị bổ sung yếu tố loại trừ vào quy định tại điểm a khoản 7 Điều 3 dự thảo Luật như sau: “Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ trừ trường hợp quy định tại khoản 18 Điều 4 Luật này”

Về các trường hợp miễn, giảm thuế khác (Điều 5): Khoản 2 dự thảo quy định về miễn thuế thu nhập cá nhân trong thời hạn 05 năm đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân là nhân lực công nghiệp công nghệ số chất lượng cao làm việc tại các doanh nghiệp, dự án hoạt động công nghiệp công nghệ số trong khu công nghệ số tập trung; dự án nghiên cứu và phát triển, sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm, chip bán dẫn, hệ thống trí tuệ nhân tạo; thu nhập từ các hoạt động đào tạo nhân lực công nghiệp công nghệ số, đại biểu cho rằng, nếu quy định theo hướng này sẽ xảy ra tình trạng bỏ lọt pháp luật bởi một cá nhân có thể ký nhiều hợp đồng ngắn hạn trong thời hạn 05 năm hoặc chuyển nơi làm việc tại khu công nghệ số khác nhau nên cần quy định rõ ràng hơn về thời hạn và mốc xác định thời hạn 05 năm. Vì vậy đề nghị sửa theo hướng như sau: Chỉ giảm thuế thay vì miễn thuế khi không xác định được rõ mốc tính thời hạn 05 năm, đồng thời không xác định thời hạn vì hoạt động xác minh được cá nhân làm việc trong lĩnh vực này trong thời gian bao lâu, có liên tục hay không, ở khu vực nào là rất khó khăn và gần như không khả thi và dễ xảy ra tình trạng trốn/tránh thuế; Miễn thuế trong thời hạn không quá 05 năm làm việc liên tục tính từ thời điểm cá nhân ký hợp đồng lao động đầu tiên hoặc được công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực trong quy định đóng bảo hiểm xã hội./.

Nguyễn Hạnh

Tin cùng chuyên mục