Góp ý vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng, đại biểu Lò Thị Việt Hà (Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội) nhất trí về cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, sự cần thiết ban hành Luật; tán thành với phạm vi sửa đổi, bổ sung của dự án Luật. Dự thảo Luật đã kịp thời thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng, bảo đảm phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và hệ thống phá luật khi tiến hành đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp.
Đại biểu Quốc hội Lò Thị Việt Hà phát biểu thảo luận
Về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập công tác tại các cơ quan của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội (khoản 3 Điều 30): đại biểu nhất trí với dự thảo Luật về thẩm quyền của Văn phòng Quốc hội đối với công chức công tác tại Văn phòng Quốc hội, bên cạnh đó, các vụ chuyên môn giúp việc Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội hiện nay không nằm trong cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội nữa mà trực thuộc Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; đối với thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập của Ủy ban Công tác đại biểu theo dự thảo Luật cũng bị trùng một số đối tượng thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội quản lý, do vậy đề nghị nghiên cứu, chỉnh sửa cho phù hợp.
Về Tài sản thu nhập phải kê khai và mức biến động tài sản, thu nhập trong năm phải kê khai bổ sung: đại biểu nhất trí nâng mức giá trị tài sản, thu nhập phải kê khai từ 50 triệu đồng lên 150 triệu đồng đối với kim loại quý, đá quý và tài sản khác; nâng mức biến động tài sản, thu nhập trong năm phải kê khai bổ sung từ 300 triệu đồng lên 1 tỷ đồng. Đại biểu cũng đề nghị không nên quy định trong luật mà giao cho Chính phủ quy định chi tiết để linh hoạt điều chỉnh để Luật ổn định hơn.
Góp ý vào dự thảo Luật Giám định tư pháp (sửa đổi), đại biểu Âu Thị Mai (Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh) thống nhất cao sự cần thiết ban hành Luật, dự thảo Luật đã thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; nâng cao chất lượng đội ngũ người giám định tư pháp; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng; tạo cơ sở pháp lý mang tính đột phá, phát triển bền vững tổ chức, hoạt động giám định tư pháp.
Đại biểu Quốc hội Âu Thị Mai phát biểu thảo luận
Về mở rộng phạm vi lĩnh vực xã hội hóa giám định tư pháp tại Văn phòng giám định tư pháp, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét mở rộng thêm một số lĩnh vực mà xã hội đang có nhu cầu như: thông tin và truyền thông, khoa học và công nghệ, dược, mỹ phẩm, an toàn thực phẩm, nông lâm thủy sản, động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm… để phù hợp với thực tiễn và xu hướng phát triển nghề giám định tư pháp.
Về tiêu chuẩn giám định viên tư pháp theo vụ việc: Điều 13 dự thảo đã quy định tiêu chuẩn của người giám định tư pháp theo vụ việc theo hướng mở, đại biểu cho rằng quy định này là cần thiết để tăng cường nhân lực giám định có chất lượng. Tuy nhiên để đảm bảo tính công bằng giữa giám định viên tư pháp và người giám định theo vụ việc và không mâu thuẫn với Luật Cán bộ, công chức, đề nghị ban soạn thảo cần lượng hóa các cụm từ “kiến thức chuyên sâu” và “kinh nghiệm thực tiễn”, bổ sung tiêu chí cụ thể về số năm kinh nghiệm, cùng với cơ chế thẩm định, giám sát.
Về văn phòng giám định tư pháp (Điều 20): đại biểu cho rằng, hình thức xã hội hóa Văn phòng giám định là bước tiến mới, tuy nhiên nếu không quy định chặt chẽ rất dễ nảy sinh nguy cơ về xung đột lợi ích khi văn phòng mang tính chất doanh nghiệp tư nhân, hoạt động theo mục tiêu lợi nhuận, nhưng lại chịu ràng buộc bởi yêu cầu độc lập, khách quan của hoạt động giám định. Do đó đề nghị dự thảo Luật cần quy định rõ cơ chế kiểm soát, hạn chế cho phép văn phòng tư nhân tham gia giám định trong tố tụng hình sự, chỉ nên tập trung vào lĩnh vực dân sự, hành chính và phải có cơ chế giám sát chặt chẽ để lợi ích kinh tế không chi phối kết luận.
Về tổ chức giám định theo vụ việc (Điều 18): đại biểu đề nghị bổ sung quy định theo hướng phải làm rõ chủ thể thực hiện giám định, chủ thể chịu trách nhiệm; đồng thời cần quy định tiêu chuẩn bắt buộc (bằng cấp, thâm niên, kinh nghiệm, uy tín nghề nghiệp); quy định cơ quan công nhận tạm thời hoặc lâu dài đối với người giám định tư pháp theo vụ việc; bổ sung cơ chế đăng ký, cấp mã định danh cho người giám định theo vụ việc; thiết lập cơ sở giữ liệu quốc gia về người có thể thực hiện giám định theo vụ việc; cơ chế kiểm tra, đánh giá thẩm định kết luận giám định; cơ chế bảo bảo vệ người giám định; trách nhiệm của cơ quan trưng cầu giám định.
Góp ý vào dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi), đại biểu Tráng A Dương (Ủy viên Chuyên trách tại Hội đồng Dân tộc của Quốc hội) đề nghị bỏ từ “tôn trọng” sau cụm từ “Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải...” tại khoản 1 Điều 4 (về nguyên tắc thi hành án dân sự) với lý do việc tôn trọng hay không tôn trọng mang tỉnh ước lệ cao, rất khó định lượng trên thực tế, trong khi cụm từ “nghiêm chỉnh chấp hành” đã bao hàm cả sự tôn trọng, sự nghiêm túc và tính tuân thủ trong thi hành pháp luật.
Đối với quy định về bảo đảm hoạt động thi hành án dân sự (Điều 9), đại biểu đề nghị chỉ nên quy định nguyên tắc Nhà nước bảo đảm ngân sách và các điều kiện cần thiết bảo đảm cho cơ quan quản lý, cơ quan thi hành án dân sự, còn cụ thể bảo đảm những gì và như thế nào nên giao Chính phủ quy định.
Đại biểu Quốc hội Tráng A Dương phát biểu thảo luận
Cùng góp ý vào dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) đại biểu Nguyễn Việt Hà (Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Tuyên Quang) tham gia một số nội dung, cụ thể:
Về hệ thống cơ quan Thi hành án dân sự (tại khoản 3 Điều 19), đề nghị bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế phối hợp với các cơ quan tố tụng của phòng Thi hành án dân sự khu vực trong công tác Thi hành án dân sự.
Về các mốc về thời hạn, thời hiệu thực hiện thi hành án, đại biểu đề nghị rà soát để rút ngắn 1 số mốc thời gian trong công tác thi hành án dân sự nhằm đẩy nhanh hơn nữa quá trình thực hiện thi hành án, qua đó giúp bảo vệ tối đa hơn quyền lợi các bên, đặc biệt là giữ được giá trị tài sản phải thi hành án trong các vụ việc thi hành án dân sự, như quy định về thời hạn yêu cầu thi hành án áp dụng cho Văn phòng thi hành án cần ít hơn so với cơ quan thi hành án nhà nước, hay thời hạn xác minh điều kiện thi hành án đề nghị áp dụng ứng dụng Khoa học công nghệ, sử dụng cơ sở dữ liệu sẵn có trong công tác xác minh điều kiện thi hành án để cắt ngắn hơn thời hạn này.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Việt Hà phát biểu thảo luận
Về quyền lựa chọn cơ quan thi hành án dân sự: đại biểu đề nghị bổ sung quy định nguyên tắc ưu tiên lựa chọn cơ quan thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án và người được thi hành án lựa cơ quan thi hành án khác nhau để đảm bảo tính thống nhất, tránh mất thời gian thực hiện thi hành án do vướng mắc vấn đề này.
Đại biểu Vương Thị Hương (Phó Chủ tịch UBND xã Pà Vầy Sủ) khẳng định việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự là cần thiết, nhằm khắc phục những bất cập trong tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các đạo luật có liên quan.
Về tổ chức hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, đại biểu nhất trí với quy định tại Điều 17 dự thảo, xác định rõ hệ thống cơ quan gồm cơ quan quản lý thuộc Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố và cơ quan thi hành án cấp quân khu, coi đây là bước đột phá trong tổ chức bộ máy, việc bổ sung quy định mới về mô hình Văn phòng Thi hành án dân sự là phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự.
Về Điều 2 (Bản án, quyết định được thi hành), đại biểu đề nghị bổ sung cụm từ “phán quyết” vào tiêu đề để bảo đảm thống nhất với nội dung quy định tại khoản 3, phù hợp với pháp luật về trọng tài thương mại.
Đại biểu Quốc hội Vương Thị Hương phát biểu thảo luận
Đối với Điều 3 (Giải thích từ ngữ), đại biểu cho rằng việc gộp chung “người phải thi hành án” và “người có tài sản bảo đảm” trong cùng một khoản là chưa chính xác về bản chất pháp lý, dễ gây nhầm lẫn khi áp dụng. Đề nghị tách riêng hai khái niệm này để đảm bảo tính thống nhất với Bộ luật Tố tụng dân sự và thực tiễn thi hành.
Góp ý Điều 21 và Điều 31 về thẩm quyền cơ quan thi hành án cấp quân khu, đại biểu chỉ rõ lỗi kỹ thuật trong dẫn chiếu điều khoản, cần sửa “khoản 2” thành “khoản 3 Điều 31” để bảo đảm chính xác. Đồng thời, đề nghị gộp điểm a và b khoản 3 Điều 31 do nội dung trùng lặp, giúp quy định ngắn gọn, dễ áp dụng.
Về Điều 39 (Bảo quản, khai thác tài sản thi hành án), đề nghị bổ sung tiêu chí rõ ràng đối với cá nhân, tổ chức được giao bảo quản tài sản, bao gồm năng lực pháp lý, cơ sở vật chất, trách nhiệm bồi thường và quy trình lựa chọn minh bạch…
Về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của chấp hành viên và thừa hành viên, đại biểu đề nghị giao Chính phủ hoặc Bộ Tư pháp ban hành quy định riêng về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp để thống nhất thực hiện.
Đại biểu nhấn mạnh, việc sửa đổi Luật Thi hành án dân sự lần này phải hướng tới mục tiêu tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức, góp phần xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, liêm chính, hiện đại./.









