Đại biểu Hoàng Ngọc Định (Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, kiêm Chỉ huy trương Ban Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh) góp ý vào dự thảo Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú.
Tại khoản 2 Điều 8, khoản 4 Điều 10 và điểm đ khoản 2 Điều 20: Đề nghị lược bỏ cụm từ “cấp tỉnh” sau cụm từ “ Ban chỉ huy Bộ đội biên phòng” để đảm bảo thống nhất Điều 21 Luật Biên phòng Việt Nam năm 2020, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 5 Điều 5 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật về Quân sự, Quốc phòng và thống nhất theo Đề án số 839-ĐA/QUTW ngày 24/5/2025 của Quân ủy Trung ương.

Đại biểu Hoàng Ngọc Định (Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, kiêm Chỉ huy trương Ban Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh) tham gia góp ý kiến
Tại khoản 4 Điều 10, đề nghị nghiên cứu, bổ sung thêm 01 điểm theo hướng Bộ đội Biên phòng có nhiệm vụ, quyền hạn “Ban chỉ huy Bộ đội biên phòng có nhiệm vụ, quyền hạn điều chuyển người từ buồng tạm giữ của đồn Biên phòng, Ban chỉ huy Biên phòng cửa khẩu cảng đến các cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân” để đảm bảo phù hợp với điểm đ khoản 2 Điều 20 của dự thảo Luật.
Tại điểm đ khoản 2 Điều 9 (Hệ thống tổ chức cơ quan thi hành tam giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú), khoản 1 Điều 13 buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng): đề nghị bổ sung thẩm quyền tổ chức tạm giữ cho “Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng” và “Ban Chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu” trong toàn hệ thống, không chỉ giới hạn ở vùng sâu, vùng xa; làm rõ quyền hạn tạm giữ, tạm giam của cơ quan biên phòng, bảo đảm thống nhất với quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
Theo đại biểu, hầu hết các đồn biên phòng hiện nay đã có cơ sở vật chất đủ điều kiện, có thể cải tạo để sử dụng làm nơi tạm giữ mà không phát sinh thêm biên chế hoặc kinh phí xây dựng. Việc cho phép tổ chức tạm giữ tại các đồn biên phòng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm, bảo đảm an toàn, trật tự trong quá trình điều tra, đồng thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới trong tình hình mới.
Tham gia góp ý đối với dự thảo Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi), đại biểu Tráng A Dương, Ủy viên chuyên trách Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, bày tỏ sự đồng thuận cao với sự cần thiết ban hành luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự, đổi mới phương thức quản lý, giám sát và giáo dục người chấp hành án tại cộng đồng.

Đại biểu Tráng A Dương, Ủy viên chuyên trách Hội đồng Dân tộc của Quốc hội phát biểu
Đại biểu đề nghị chỉnh lý khoản 6 Điều 3 về khái niệm “thi hành án tử hình” theo hướng bổ sung cụm từ “theo bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành”, để bảo đảm rõ căn cứ pháp lý, tránh hiểu sai, đồng thời thể hiện nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền được sống và quyền được xét xử công bằng.
Về các hành vi bị nghiêm cấm, đại biểu đề nghị bổ sung hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án”, qua đó tăng tính răn đe, phòng ngừa tiêu cực trong quá trình thi hành án.
Về quy định quyền được lưu trữ trứng, tinh trùng của phạm nhân, đại biểu Tráng A Dương đánh giá đây là chính sách nhân văn, thể hiện sự tôn trọng quyền con người, song dự thảo mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc mà chưa quy định cụ thể về trình tự, điều kiện và nguồn kinh phí bảo đảm thực hiện. Đại biểu kiến nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định mang tính nguyên tắc tại Điều 23 theo hướng Nhà nước tạo điều kiện để phạm nhân thực hiện quyền này theo nguyện vọng, phù hợp với điều kiện thực tế và quy định của pháp luật về y tế; đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết về quy trình, thủ tục, cơ chế phối hợp và nguồn kinh phí thực hiện, có thể xã hội hóa hoặc do thân nhân tự chi trả, nhưng Nhà nước cần hỗ trợ về thủ tục và điều kiện pháp lý.
Đại biểu cũng góp ý về thẩm quyền tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù (Điều 32), đề nghị thống nhất cấp tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định với cấp cơ quan đề nghị, tránh chồng chéo. Ngoài ra, cần bổ sung quy định cho phép phạm nhân là người nước ngoài được liên lạc điện thoại hoặc kết nối hình ảnh, âm thanh với thân nhân ở nước ngoài, bảo đảm quyền liên lạc hợp pháp và phù hợp với hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thi hành án hình sự.
Đối với trường hợp người được hưởng án treo có nguyện vọng làm việc, học tập ngoài nơi cư trú, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các trường hợp không được phép, hoặc giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết để bảo đảm tính minh bạch, thống nhất, tránh lúng túng trong áp dụng giữa các địa phương.
Về thi hành quyết định thi hành án treo (Điều 80), đại biểu đề nghị Ban soạn thảo: Cân nhắc sửa đổi, chỉnh lý khoản 3 Điều 80 theo hướng phân biệt rõ giữa hồ sơ bàn giao ban đầu do Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh lập và chuyển cho Công an cấp xã - chỉ bao gồm các tài liệu có sẵn khi bản án có hiệu lực (các điểm a, b và các tài liệu tương ứng); hồ sơ phát sinh trong quá trình thi hành án do Công an cấp xã lập, cập nhật, bổ sung trong quá trình quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án treo (các điểm c, d, đ, e) nhằm đảm bảo phù hợp với trình tự, thực tiễn tổ chức thi hành án treo ở cơ sở. Rõ ràng trách nhiệm và thời điểm lập, cập nhật hồ sơ, tránh chồng chéo, bỏ sót góp phần nâng cao tính khả thi, thống nhất trong thực hiện giữa các cấp Công an và cơ quan liên quan.
Về giải quyết trường hợp người được hưởng án treo có nguyện vọng làm việc, học tập ngoài nơi cư trú (Điều 88): Theo đại biểu, khoản 1 dự thảo Luật chưa xác định cụ thể các trường hợp, điều kiện người được hưởng án treo không được làm việc, học tập ngoài nơi cư trú, dẫn đến thiếu thống nhất trong quá trình áp dụng giữa các địa phương.
Thực tế cho thấy, việc người được hưởng án treo làm việc, học tập ngoài nơi cư trú có thể gây khó khăn cho công tác giám sát, giáo dục, tiềm ẩn nguy cơ bỏ trốn, vi phạm nghĩa vụ hoặc tái phạm tội, nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Vì vậy, cần quy định rõ các trường hợp không được phép để bảo đảm tính minh bạch, thống nhất và khả thi trong thực hiện.
Đề nghị Ban soạn thảo: Bổ sung quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 88 hoặc giao Chính Phủ ban hành hướng dẫn chi tiết về các trường hợp người được hưởng án treo không được làm việc, học tập ngoài nơi cư trú nhằm bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và khả thi trong quá trình áp dụng giữa các địa phương, đơn vị. Tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án treo, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp đủ điều kiện chính đáng được làm việc, học tập ngoài nơi cư trú./.









