Phát biểu thảo luận về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công, đại biểu Lý Thị Lan, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tỉnh đồng tình với sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật nhằm thể chế hóa các chủ trương của Đảng, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thực tiễn phát sinh sau gần 7 năm thực hiện Luật.

Đại biểu Lý Thị Lan, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tỉnh tham gia phát biểu
Về khái niệm hạn mức bảo lãnh chính phủ: khoản 21 Điều 3 Luật Quản lý nợ công 2017 quy định: “Hạn mức bảo lãnh Chính phủ là mức bảo lãnh tối đa của Chính phủ trong 01 năm hoặc 05 năm, được xác định bằng số tiền thực nhận trừ số trả nợ gốc.”. Đây là mức trần về số tiền bảo lãnh thực tế được Chính phủ cam kết trong kỳ 1 năm hoặc 5 năm; sự tính toán trên cơ sở tính trên số dư bảo lãnh thực tế trong kỳ. Tuy nhiên, công thức này chỉ phản ánh phần bảo lãnh đang được sử dụng, không bao quát toàn bộ nghĩa vụ tiềm ẩn dự phòng mà Chính phủ có thể phải gánh nếu bên vay không trả được nợ…Do đó, kiến nghị sửa đổi khoản 21 Điều 3 theo hướng nêu rõ “Hạn mức bảo lãnh Chính phủ là mức bảo lãnh tối đa của Chính phủ trong 01 năm hoặc 05 năm, được xác định bằng số tiền thực nhận trừ số trả nợ gốc. Hạn mức này không bao gồm toàn bộ nghĩa vụ dự phòng tiềm ẩn từ các cam kết bảo lãnh chưa rút vốn. Việc xác định nghĩa vụ nợ dự phòng từ bảo lãnh được thực hiện theo nguyên tắc quản lý rủi ro tài khóa do Chính phủ quy định". Theo đại biểu, khái niệm này sẽ bảo đảm giữ nguyên công cụ hạn mức bảo lãnh để kiểm soát trần nợ; bổ sung hướng dẫn đánh giá nghĩa vụ dự phòng, từ đó gắn kết chính sách bảo lãnh với quản lý rủi ro tài khóa, đồng thời nâng cao minh bạch ngân sách và giám sát của Quốc hội.
Về xử lý vi phạm (Điều 9 Luật Quản lý nợ công 2017): Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh kiến nghị sửa đổi theo hướng chi tiết hóa trách nhiệm pháp lý và đồng tình giao Chính phủ quy định chi tiết các hành vi vi phạm trong quản lý nợ công, thẩm quyền xử lý, mức độ xử lý và quy trình đánh giá hậu quả, bảo đảm thống nhất với pháp luật liên quan về tài chính công, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Khoản 19 Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 53 - Điểm a khoản 1): Đề nghị giữ như quy định hiện hành (UBND tỉnh phải xin ý kiến chấp thuận của Bộ Tài chính về điều kiện, điều khoản của trái phiếu chính quyền địa phương). Lý do: Việc mỗi địa phương tự phát hành trái phiếu mà không có sự kiểm soát về điều kiện, điều khoản có nguy cơ dẫn đến mặt bằng lãi suất huy động không thống nhất, kỳ hạn không phù hợp, và có thể gây ra rủi ro tài chính cho nợ của các địa phương. Nếu dự thảo Luật vẫn phân cấp, đề nghị việc giao quyền hoàn toàn cho HĐND cấp tỉnh phê duyệt phải đảm bảo trong tổng mức vay được Quốc hội phê duyệt để đảm bảo an toàn nợ công.

Đồng chí Nguyễn Việt Hà, ĐBQH tỉnh Tuyên Quang tham gia góp ý
Góp ý vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, đại biểu Nguyễn Việt Hà bày tỏ sự nhất trí cao với sự cần thiết sửa đổi Luật, đồng thời tham gia góp ý một số nội dung, cụ thể:
Đề nghị bổ sung vào Điều 3a nguyên tắc đáp ứng điều kiện góp vốn theo quy định của pháp luật Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài, hiện nay Luật Đầu tư đang quy định 1 số nguyên tắc khi đầu tư như điều kiện về tiếp cận thị trường, điều kiện bảo đảm ANQP, điều kiện về đất đai…
Tại Điều 65 về Điều kiện của thành viên góp vốn thành lập của Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, đại biểu cho rằng việc bỏ yêu cầu xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nước sở tại về không vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đối với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài là chưa hợp lý, bởi lĩnh vực này có độ rủi ro cao, hệ luỵ tác động rộng, cần có sự xác thực rõ ràng về năng lực và tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp.
Đối với Điều 73 về thời hạn chính thức hoạt động, đại biểu kiến nghị xem xét lại quy định thời hạn báo cáo gia hạn hoạt động trước 15 ngày trước ngày hết hạn phải chính thức hoạt động, bởi đây là các trường hợp khách quan, bất khả kháng nên phát sinh có thể không lường trước được do vậy quy định như dự thảo có thể không khả thi trên thực tế. Đồng thời, dự thảo cũng bỏ khoản 2 Điều này về các quy định phải đáp ứng trước khi hoạ động chính thức, đại biểu đề nghị rà soát lại và giữ lại các điều kiện cốt lõi như vốn pháp định, người đại diện theo pháp luật, trụ sở hoạt động của doanh nghiệp…đây là những điều kiện tiên quyết cần phải có để doanh nghiệp có thể tham gia các giao dịch dân sự, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho doanh nghiệp và khách hàng.
Tại Điều 101 về tách nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn phí bảo hiểm, phân chia thặng dư, đại biểu đồng tình với việc chỉnh sửa, song đề nghị cần bổ sung nội dung về phân chia thặng dư để bảo đảm đầy đủ nguyên tắc quản lý tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm.
Đối với quy định về Nhân sự, vốn, tài chính, chế độ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm quy định tại Điều 138, đại biểu nhất trí bổ sung nguyên tắc về đầu tư bảo đảm an toàn, thanh khoản, hiệu quả, nhưng đề nghị thêm các tiêu chí “trung thực, chính xác” do hoạt động của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là cung cấp thông tin, tư vấn cho người dân sử dụng dịch vụ bảo hiểm nên cần phải đảm bảo yếu tố trung thực và chính xác để bảo vệ quyền và lợi ích của người dân khi tham gia sử dụng dịch vụ bảo hiểm, tăng cường minh bạch và niềm tin của người dân.
Đại biểu Vương Thị Hương nhất trí với dự thảo Luật và đã góp ý chi tiết vào 7 nhóm vấn đề cụ thể, tập trung vào việc giải quyết các vướng mắc từ thực tiễn và đảm bảo tính thống nhất của pháp luật:
Về nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe (Điều 63): Đồng tình với việc dự thảo điều chỉnh phạm vi hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, tránh nhầm lẫn giữa bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tử vong ngắn hạn. Đồng thời, đại biểu đề nghị sửa đổi định nghĩa "Bảo hiểm sức khỏe" (khoản 15 Điều 4) để làm rõ loại hình này bao gồm cả các rủi ro phát sinh trực tiếp từ tai nạn, ốm đau, bệnh tật (vốn có thể dẫn đến tử vong).

Đại biểu Vương Thị Hương nhất trí với dự thảo Luật
Về thời hạn chứng chỉ đại lý bảo hiểm (Điều 157): Đại biểu chỉ ra sự vênh nhau giữa dự thảo Luật (cho phép dùng chứng chỉ cũ đến 30/6/2026) và Thông tư của Bộ Tài chính (yêu cầu nộp hồ sơ chuyển đổi trước 30/9/2025) và kiến nghị gia hạn thời gian nộp hồ sơ chuyển đổi đến hết ngày 30/6/2026. Đồng thời, quy định cho phép các đại lý đã nộp hồ sơ hợp lệ trước hạn này được tiếp tục hoạt động cho đến khi có kết quả phê duyệt, tránh gián đoạn thu nhập.
Về thuật ngữ "hội sở", "sở giao dịch": Đề nghị bổ sung định nghĩa rõ ràng hoặc điều chỉnh thuật ngữ để thống nhất với Luật Doanh nghiệp (ví dụ: dùng "Chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh...").
Về hiệu lực thi hành (Điều 156): Cho rằng dự thảo có quá nhiều mốc hiệu lực thi hành khác nhau (2028, 2031), gây khó khăn cho việc tra cứu và áp dụng, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo ban hành kèm theo Luật một "Bảng phụ lục chuyển tiếp" để liệt kê rõ từng điều khoản, ngày hiệu lực, và quy định chuyển tiếp.
Về quyền lợi có thể được bảo hiểm (Điều 34 Luật hiện hành: đề xuất bổ sung quy định công nhận quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với "Người có quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng tài sản" trong các trường hợp này.
Về quản lý nhà nước (Điều 151 Luật hiện hành): Đề nghị bổ sung vào nhiệm vụ của Bộ Tài chính trong dự thảo luật để thể chế hóa Chỉ thị số 52-CT/TW của Ban Bí thư (về liên kết bảo hiểm y tế và bảo hiểm sức khỏe thương mại).
Về thưởng, hỗ trợ đại lý bảo hiểm (Điều 128 Luật hiện hành): Đề nghị bổ sung định nghĩa về "thưởng, hỗ trợ" vào phần giải thích từ ngữ (Điều 4) và giao Bộ Tài chính quy định chi tiết về phạm vi, nguyên tắc thực hiện./.









