Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh thảo luận tại Tổ về các dự án Luật: Luật Chuyển đổi số; Luật Công nghệ cao (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ

Chiều ngày 06/11, đồng chí Lý Thị Lan, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tỉnh Tuyên Quang đã chủ trì thảo luận tại Tổ thảo luận số 16 về dự thảo 03 dự án Luật, gồm: Luật Chuyển đổi số; Luật Công nghệ cao (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.

Đồng chí Lý Thị Lan, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tỉnh Tuyên Quang chủ trì thảo luận

Góp ý vào dự thảo Luật Chuyển đổi số, đại biểu Âu Thị Mai (Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh) thống nhất cao với sự cần thiết ban hành Luật chuyển đổi số với các lý do nêu tại Tờ trình của Chính phủ, việc xây dựng Luật Chuyển đổi số nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Đại biểu Âu Thị Mai, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh tham gia phát biểu

Về Chính sách của Nhà nước về chuyển đổi số: Theo đại biểu, các chính sách được quy định rải rác ở rất nhiều điều của Luật, đề nghị Ban soạn thảo thiết kế lại cho phù hợp, đồng thời đề nghị dự thảo Luật cần tập trung vào các chính sách ưu tiên về phát triển hạ tầng, ưu đãi đất đai, vốn đầu tư, đào tạo nhân lực chuyển đổi số cho khu vực Nhà nước và doanh nghiệp, đặc biệt là tại các địa bàn khó khăn, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, để thực hiện hiệu quả mô hình chính quyền địa phương hai cấp; chính sách hỗ trợ các tổ nhóm, cơ sở giáo dục, học viện, trường học triển khai phong trào “Bình dân học vụ số” giúp người dân nắm bắt kỹ năng số cơ bản trong đời sống hàng ngày nhằm đưa Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia  mới thực sự đi vào cuộc sống.

Về Nguyên tắc chuyển đổi số trong hệ thống chính trị và chính phủ số: đại biểu đề nghị Cơ quan soạn thảo chỉnh sửa, bổ sung thêm nội dung Điều 13 của dự thảo Luật để quy định về nguyên tắc chuyển đổi số của các thiết chế trong hệ thống chính trị cho đầy đủ, bao gồm chuyển đổi số của Đảng Cộng sản Việt Nam, các Cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức khác.

Về Chính sách quản lý, phát triển kinh tế số lõi: đề nghị Ban soạn thảo cần quy định cụ thể hơn, có tính định lượng về chính sách quản lý, trong đó quy định rõ Nhà nước sẽ bảo đảm tỷ lệ bao nhiêu % ngân sách để đầu tư phát triển và đáp ứng tối thiểu nhu cầu sử dụng của xã hội để phát triển kinh tế số lõi để tạo thuận lợi trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện.

Về Tài chính cho chuyển đổi số: đại biểu đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại nội dung khái quát, có tính nguyên tắc, quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội để tránh chồng chéo, trùng lặp, mâu thuẫn với các quy định hiện hành có liên quan.

Đối với quy định về hợp tác quốc tế về chuyển đổi số: đại biểu đề nghị quy định rõ các nguyên tắc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chuyển đổi số để làm cơ sở cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về chuyển đổi số với các nước, các tổ chức quốc tế.

Đại biểu Vương Thị Hương (Phó Chủ tịch UBND xã Pà Vầy Sủ) đề nghị: Về Chính sách Nhà nước về chuyển đổi số (Điều 4): Cần cụ thể hóa chính sách ưu tiên cho vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn: ưu tiên bố trí ngân sách và huy động nguồn lực xã hội để đầu tư hạ tầng số, nền tảng dùng chung và đào tạo nhân lực số; khuyến khích doanh nghiệp thông qua cơ chế ưu đãi về thuế, tín dụng đối với dự án đầu tư hạ tầng số và phát triển dịch vụ công trực tuyến tại các vùng này.

Đại biểu Vương Thị Hương, Phó Chủ tịch UBND xã Pà Vầy Sủ tham gia ý kiến

Về Hạ tầng cho chuyển đổi số (Điều 9): Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung giải thích từ ngữ hoặc giao Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí kỹ thuật của “dung lượng siêu lớn”, “băng thông siêu rộng” để thống nhất cách hiểu và định hướng đầu tư.

 Về Nguyên tắc chuyển đổi số trong hệ thống chính trị (Điều 13): đề nghị giao Chính phủ quy định danh mục lĩnh vực được phép thực hiện song song (số hóa và hồ sơ giấy) trong giai đoạn đầu và xây dựng lộ trình chuyển đổi theo từng giai đoạn.

Về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Sandbox): Đại biểu thống nhất đưa cơ chế Sandbox vào luật, nhưng đề nghị giao Chính phủ quy định chi tiết để dễ triển khai, làm rõ: Danh mục lĩnh vực ưu tiên (ví dụ: AI, dữ liệu mở); Thẩm quyền cấp phép, thời hạn, tiêu chí đánh giá; Trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức tham gia.

Về Ngôn ngữ số (Điều 51): đại biểu thống nhất việc quy định “Ngôn ngữ số” là nội dung bắt buộc trong chương trình giáo dục, đề nghị bổ sung giao Chính phủ quy định lộ trình cụ thể, hướng dẫn chi tiết và nguồn lực bảo đảm thực hiện, đồng thời có chính sách đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và đầu tư hạ tầng công nghệ cho các trường vùng khó khăn để đảm bảo công bằng tiếp cận.

Góp ý về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghệ cao, đại biểu Hoàng Ngọc Định (Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Phó Chỉ huy Trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, kiêm Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh) đề nghị sửa đổi khái niệm Công nghệ cao bằng cách bổ sung cụm từ "có tính đột phá, đổi mới"; bổ sung khái niệm "Công nghệ chiến lược”; sửa đổi Điều 5 và các Điều liên quan (Điều 18, Điều 19) để bổ sung "công nghệ chiến lược" vào các danh mục và tên điều; nghiên cứu bổ sung các điều, khoản quy định việc thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Công nghệ cao.

Đại biểu Quốc hội Hoàng Ngọc Định, Đoàn ĐBQH tỉnh tham gia ý kiến

Đối với dự Luật Chuyển giao công nghệ, đại biểu Hoàng Ngọc Định thống nhất sự cần thiết ban hành Luật, đồng thời đề nghị bổ sung 01 khoản vào Điều 55 của Luật Chuyển giao công nghệ hiện hành để quy định trách nhiệm của Bộ Quốc phòng theo hướng giao Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ thuộc quyền quản lý, để phù hợp với đặc thù quân sự quốc phòng, phù hợp với các Luật đã ban hành, tạo hành lang pháp lý để Bộ Quốc phòng kiểm soát, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm/dịch vụ công nghiệp quốc phòng, đồng thời bảo vệ bí mật nhà nước và lợi ích quốc gia./.

Nguyễn Hạnh

Tin cùng chuyên mục