Quốc dân Đại hội Tân Trào - Hội nghị Diên Hồng thứ hai trong lịch sử, tiền thân của Quốc hội Việt Nam
Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, tháng 10/1944, trước chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới có lợi cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập một cơ cấu đại biểu cho sự đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta, tạo nên sức mạnh dân tộc bên trong và tranh thủ ngoại viện của quốc tế nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho được mục tiêu độc lập, tự do.

Quốc dân đại hội Tân Trào, Ảnh tư liệu.
Ngay từ đầu tháng 5/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã chọn Tân Trào - Tuyên Quang làm trung tâm đặt các cơ quan lãnh đạo cách mạng để lãnh đạo nhân dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Giữa tháng 8/1945, khi chủ nghĩa phát xít tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh không điều kiện và lực lượng cách mạng Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong cả nước, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 - 15/8/1945 để quyết định phát động Tổng khởi nghĩa.
Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp tại Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 để quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, tại Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã khai mạc Đại hội Đại biểu Quốc dân, nay gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào. Tại Đại hội, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương đã đọc bản báo cáo, trong đó nhấn mạnh hai vấn đề lớn: Tổng khởi nghĩa và bầu Uỷ ban dân tộc giải phóng. Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương lãnh đạo quần chúng Nhân dân nổi dậy tước vũ khí của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, giành lấy chính quyền, đứng địa vị cầm quyền mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất Đông Dương. Trên cơ sở đó, Đại hội đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh; đồng thời nhất trí thông qua 10 chính sách của Việt Minh, bao gồm: Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập; Võ trang nhân dân, phát triển Quân giải phóng Việt Nam; Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tuỳ từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo; Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ; Ban bố những quyền của dân cho dân: Nhân quyền, Tài quyền (quyền sở hữu), Dân quyền (Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền; Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân; Ban bố Luật lao động: ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm; Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở Quốc gia ngân hàng; Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn hoá mới; Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ.
Đại hội đã quyết định thành lập Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Thường trực của Uỷ ban gồm 5 người: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng và Dương Đức Hiền. Đồng thời, Đại hội cũng quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa và Quốc ca là bài “Tiến quân ca”.

Đình Tân Trào được Bác Hồ và Trung ương Đảng chọn làm nơi tổ chức họp Quốc dân Đại hội. Ảnh tư liệu.
Chiều ngày 16/8/1945, tại Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã khai mạc Đại hội Đại biểu Quốc dân, nay gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào. Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc - Trung - Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào để bàn kế hoạch Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về Nhân dân. Đại hội đại biểu quốc dân đã thông qua ba quyết định lớn:
Thứ nhất, nhất trí tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh.
Thứ hai, thông qua 10 chính sách của Việt Minh và hiệu triệu đồng bào tích cực phấn đấu thực hiện, trong đó điểm mấu chốt đầu tiên là giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập.
Thứ ba, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, Đại hội bế mạc trong không khí sôi nổi của Tổng khởi nghĩa. Thay mặt Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của Nhân dân. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo Nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước”.
Quốc dân Đại hội Tân Trào là mốc son trong lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam, thể hiện ý chí mạnh mẽ, tinh thần đoàn kết nhất trí của toàn thể dân tộc trong giờ phút quyết định vận mệnh của đất nước, quyết tâm thực hiện đường lối tổng khởi nghĩa, xóa bỏ chế độ nô dịch thực dân, phong kiến, thi hành chính sách 10 điểm của Việt Minh, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho một chế độ mới. Đây là thắng lợi lớn của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đánh giá đúng tình hình cách mạng trong nước và thế giới, chớp đúng thời cơ giành chính quyền. Những quyết nghị đại hội thông qua là bước thực thi dân chủ, xây dựng Nhà nước do nhân dân làm chủ, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước theo tư tưởng của Người ngay trong tiến trình đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Đây là một Đại hội mang tầm vóc lịch sử của một Quốc hội, một cơ quan quyền lực nhà nước lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Uỷ ban dân tộc giải phóng (tức Chính phủ cách mạng lâm thời) của nước Việt Nam được Quốc dân Đại hội bầu ra ngày 16/8/1945 là người đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất của Nhân dân Việt Nam để thực hiện những quyết sách lớn của công cuộc cứu nước và kiến quốc. Đây là thắng lợi lớn của nghệ thuật chớp đúng thời cơ của Tổng bộ Việt Minh, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự sáng tạo độc đáo của Người trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và những quyết định đi đến ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam
Từ những quyết sách của Đại hội, toàn thể nhân dân Việt Nam đã nhất tề khởi nghĩa giành chính quyền, đưa cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng 8/1945 đến thắng lợi hoàn toàn. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập vang lên tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Bác Hồ đã nhấn mạnh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Đó là những tuyên ngôn hào sảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trước thế giới và trước đồng bào quốc dân về sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Vì vậy, nhiệm vụ cấp thiết, rất quan trọng của Nhà nước ta sau ngày thành lập là tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội để hiến định những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám vừa mới giành được, cũng như bầu Chính phủ chính thức hình thành nên tổ chức bộ máy nhà nước đầu tiên. Công việc này không chỉ để củng cố mà còn tăng cường sự vững mạnh của chính quyền nước ta, đảm bảo quyền dân chủ cho người dân; đặc biệt còn khẳng định trước thế giới tính hợp hiến, hợp pháp của một chính quyền do nhân dân bầu ra.

Báo Quốc hội, số đặc biệt ngày 6-1-1946 đã trân trọng in ở trang đầu ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và cả bút tích lời kêu gọi của Người. Ảnh tư liệu,
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ sự cấp thiết hơn bao giờ hết phải tiến hành càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu:"Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền bầu cử và ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống...". Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn giải thích trên báo Cứu Quốc ngày 30-12-1945 về nguyên tắc tự do bầu cử: "... hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giầu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ đoàn kết ".
Để công việc hệ trọng này diễn ra thành công tốt đẹp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành một loạt các sắc lệnh. Sắc lệnh số 14-SL ngày 08/9/1945 ghi rõ: "Chiếu theo Nghị quyết của Quốc dân Đại hội ngày 16,17/8/1945 tại khu giải phóng, ấn định rằng nước Việt Nam theo chính thể dân chủ cộng hòa và chính phủ nhân dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo lối phổ thông đầu phiếu cử lên”. Ngày 05/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, trong đó có đoạn: "... Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình...”. Để chuẩn bị tốt cho cuộc Tổng tuyển cử Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 51-SL, ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử.
Nhờ có sự chuẩn bị trước rất chu đáo, kỹ lưỡng, ngày 06/01/1946, nhân dân ta không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, giai cấp, tôn giáo, được trực tiếp cầm lá phiếu lựa chọn người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình tham gia cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước - Quốc hội Việt Nam. Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành sôi nổi trên khắp cả nước. Riêng các tỉnh phía Bắc, mặc dù phải đối phó với âm mưu phá hoại hết sức tinh vi và trắng trợn của kẻ thù, nhưng cuộc Tổng tuyển cử diễn ra an toàn. Các tỉnh phía Nam, nhất là ở Nam Bộ, cuộc bầu cử diễn ra dưới bom đạn rất ác liệt của giặc Pháp. Tổng số cử tri đi bỏ phiếu đạt tỷ lệ 89%, trừ một số nơi phải bầu bổ sung còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cuộc Tổng tuyển cử đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau; 43% số đại biểu không đảng phái; 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng; 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu dân tộc thiểu số. Trong thành phần của Quốc hội có đại biểu đại diện cho cả ba miền Bắc - Trung - Nam, các giới từ những nhà cách mạng lão thành, thương gia, nhân sĩ trí thức và các nhà hoạt động văn hóa, đến đại biểu các thành phần tôn giáo, những người không đảng phái và các đảng phái chính trị.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam năm 1946 được tiến hành theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất, đó là: Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Thắng lợi đó là một mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam, là sự kiện lịch sử vĩ đại, chiến thắng của một Chính thể dân chủ cộng hòa lần đầu tiên được thiết lập, mở đầu cho quá trình xây dựng chế độ dân chủ mới; là sự khởi đầu tốt đẹp của Quốc hội nước ta - một trụ cột vững chắc trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Sự ra đời và vị trí, vai trò của HĐND
Tháng 9/1945, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 63-SL quy định về tổ chức chính quyền nhân dân xã, huyện, tỉnh, kỳ; tiếp đó, ngày 21/12/1945 ban hành Sắc lệnh số 77 – SL Quy định về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thành phố và thị xã. Theo đó, chính quyền địa phương được tổ chức thành 4 cấp, gồm: Kỳ, tỉnh, huyện và xã. Đối với tỉnh và xã (ở địa bàn nông thôn); thành phố, thị xã (ở địa bàn đô thị) được xác định là cấp chính quyền hoàn chỉnh có HĐND và Ủy ban hành chính; riêng kỳ và huyện chỉ có Ủy ban hành chính.
Ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, do điều kiện kháng chiến nên Quốc hội không họp được để cụ thể hóa các quy định về Hội đồng nhân dân trong Hiến pháp năm 1946, tuy nhiên đã có nhiều Sắc lệnh được ban hành nhằm cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp về HĐND, thể hiện đường lối lãnh đạo linh hoạt của Đảng và Nhà nước ta đối với tổ chức và hoạt động của HĐND trong thời kỳ chiến tranh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến bầu cử tại nhà số 10, phố Hàng Vôi, Hà Nội. Ảnh tư liệu.
Trong giai đoạn 1959 - 1979, trước bối cảnh miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới với nhiệm vụ mới: Xây dựng, củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, do đó đòi hỏi Hiến pháp năm 1946 phải được sửa đổi, bổ sung. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I, Hiến pháp năm 1959 đã được thông qua. Điểm nổi bật và phát triển đáng ghi nhận của Hiến pháp năm 1959 là lần đầu tiên Hội đồng nhân dân được định nghĩa bằng thuật ngữ sau này trở nên quen thuộc trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của nước ta khi nói đến vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân: “Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương”. Hiến pháp khẳng định: “Tất cả quyền lực trong nước Việt nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Giai đoạn 1980 - 1991, sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, cả nước bước vào giai đoạn cách mạng mới: Giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Để khẳng định quan điểm tiếp tục tăng cường hiệu lực của chính quyền địa phương, Hiến pháp năm 1980 vẫn khẳng định: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và chính quyền cấp trên…. HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương có nhiệm kỳ là bốn năm, trong khi đó nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp khác là hai năm. Ngày 30/6/1983 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được Quốc hội thông qua để cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp năm 1980.
Từ năm 1986, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng. Quốc hội đã quyết định ban hành Hiến pháp mới năm 1992 để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Hiến pháp năm 1992 có 5 điều quy định về Hội đồng nhân dân. Các chế định này vẫn trên cơ sở kế thừa quan điểm của các bản Hiến pháp trước đó, trong đó tiếp tục quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên, nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân các cấp được tăng lên là 5 năm.
Sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành, ngày 21/6/1994, Quốc hội ban hành Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; ngày 25/6/1996, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp. Tiếp đó, ngày 25/12/2001, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được Quốc hội đã thông qua ngày 10/12/2003; Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân được Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 02/4/2005. Những văn bản pháp luật này là cơ sở cho tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân trong điều kiện đổi mới của đất nước.
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết quả tổng kết thực tiễn qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; nhằm thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Hiến pháp năm 2013, trong đó đối với chế định Hội đồng nhân dân đã có bước kế thừa và mở rộng so với Hiến pháp năm 1992. Theo đó việc tổ chức của bộ máy chính quyền địa phương (HĐND, UBND) phải phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương được đổi mới, quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ phân định rõ ràng, qua đó tạo ra sự năng động trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, đặc biệt là phát triển kinh tế - xã hội của chính quyền địa phương. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp tập trung vào việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, xây dựng, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị 02 cấp, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Từ đó đến nay, tổ chức, bộ máy của Hội đồng nhân dân các cấp không ngừng được kiện toàn, bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ qua các thời kỳ lịch sử, có những đóng góp quan trọng vào sự ổn định và phát triển trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…, qua đó khẳng định vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước trong hệ thống chính trị ở địa phương.
(Còn nữa)...









