Trưởng Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách tỉnh Tuyên Quang Lý Thị Lan kiến nghị tháo gỡ vướng mắc trong cấp Giấy phép Môi trường

Tại phiên thảo luận toàn thể của Quốc hội về báo cáo giám sát và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thi hành”, đồng chí Lý Thị Lan, Uỷ viên BTV Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách khoá XV tỉnh Tuyên Quang đã nêu nhiều ý kiến, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế cấp Giấy phép Môi trường - một khâu còn nhiều bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật hiện nay.

Đồng chí Lý Thị Lan, Uỷ viên BTV Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách khoá XV tỉnh Tuyên Quang khẳng định, báo cáo giám sát của Đoàn Giám sát Quốc hội được chuẩn bị công phu, phản ánh đúng thực tiễn triển khai chính sách, pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường. Đồng chí đồng tình với những nhận định, đánh giá của Đoàn giám sát và xin tham gia bổ sung một số nội dung liên quan đến công tác cấp Giấy phép Môi trường - một lĩnh vực còn nhiều vướng mắc trong thực thi văn bản dưới luật, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý nhà nước.

Đồng chí Lý Thị Lan, Uỷ viên BTV Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách khoá XV tỉnh Tuyên Quang phát biểu ý kiến tại hội trường

Về quy định pháp lý, đồng chí cho rằng hệ thống văn bản hiện hành vẫn còn chồng chéo, thiếu thống nhất và khó áp dụng trong thực tiễn. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có bước cải cách lớn khi tích hợp nhiều loại giấy phép môi trường thành một giấy phép thống nhất. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số quy định tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP và Nghị định số 05/2025/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung) vẫn chưa tháo gỡ được các vướng mắc về hồ sơ, quy trình và thẩm quyền cấp phép. Biểu mẫu hồ sơ “Báo cáo đề xuất cấp Giấy phép Môi trường” còn trùng lặp với hồ sơ Đánh giá tác động môi trường (ĐTM), làm tăng khối lượng thủ tục cho doanh nghiệp. Thời gian cấp phép tuy được quy định từ 30 - 45 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ nhưng thực tế thường kéo dài hơn do hồ sơ phức tạp, yêu cầu nhiều thông tin kỹ thuật, đính kèm biên bản công trình bảo vệ môi trường. Theo quy định tại Nghị định 05/2025/NĐ-CP, vẫn tồn tại ba mẫu báo cáo khác nhau cho từng loại dự án, khiến doanh nghiệp mất nhiều thời gian hoàn thiện hồ sơ.

Đối với các dự án cải tạo, mở rộng hoặc cơ sở cũ, việc đối chiếu hồ sơ gốc gặp nhiều khó khăn, dẫn đến chậm trễ trong quá trình thẩm định. Chi phí tuân thủ vẫn ở mức cao do hầu hết các cơ sở phải thuê đơn vị tư vấn lập hồ sơ, thực hiện quan trắc môi trường ba đợt, đầu tư bổ sung công trình xử lý chất thải trước khi được cấp phép. Việc xác định đối tượng phải cấp Giấy phép Môi trường cũng thiếu thống nhất giữa các địa phương. Theo Điều 39 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, chỉ các cơ sở có phát sinh chất thải vượt ngưỡng mới phải cấp phép, tuy nhiên hướng dẫn tại các nghị định còn chung chung, chưa xác định rõ tiêu chí quy mô dự án, dẫn đến tình trạng nơi yêu cầu, nơi không, gây lúng túng trong thực hiện. Ngoài ra, quy trình thẩm định còn nhiều bước trung gian, yêu cầu chỉnh sửa, bổ sung lặp lại. Nhiều cơ sở đã có báo cáo ĐTM hoặc kết quả quan trắc định kỳ, nhưng khi xin cấp phép vẫn phải đánh giá lại nguồn thải và lập hồ sơ mới, gây trùng lặp, tốn kém và kéo dài tiến độ.

Về năng lực tổ chức thực hiện và thẩm định cấp phép tại địa phương, đồng chí Lý Thị Lan, Trưởng Đoàn ĐBQH hoạt động chuyên trách tỉnh Tuyên Quang cho biết nhiều địa phương hiện nay còn thiếu cán bộ chuyên môn, thiếu chuyên gia thẩm định kỹ thuật, trong khi cơ sở vật chất quan trắc còn hạn chế. Hồ sơ của doanh nghiệp phải bổ sung nhiều lần, kéo dài thời gian. Thực tế đặt ra yêu cầu cần cho phép địa phương được thuê chuyên gia, tổ chức tư vấn độc lập hoặc hội đồng thẩm định liên vùng; đồng thời, cần có cơ chế tài chính rõ ràng, đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ môi trường cấp tỉnh, cấp xã đáp ứng yêu cầu chuyên môn.

Về phân cấp và ủy quyền thẩm quyền cấp phép, theo Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, thẩm quyền cấp Giấy phép Môi trường hiện thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), UBND hoặc Chủ tịch UBND tỉnh tùy quy mô dự án. Các dự án nhóm A, có yếu tố liên tỉnh hoặc nguy cơ ô nhiễm cao do Bộ thẩm định là phù hợp. Tuy nhiên, với các dự án nhóm B, C, dự án trong khu - cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất, chế biến, chăn nuôi quy mô vừa, việc giao thẩm quyền cho UBND hoặc Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt là chưa hợp lý. Sở Nông nghiệp và Môi trường - cơ quan chuyên môn trực tiếp thẩm định - hoàn toàn có đủ năng lực và chịu trách nhiệm về nội dung. Cách phân cấp hiện nay làm kéo dài tiến độ cấp phép, tăng tầng nấc hành chính, trong khi các dự án tại địa phương này chiếm tỷ trọng lớn và có tính lặp lại cao. Do đó, cần phân cấp mạnh cho cơ quan chuyên môn cấp tỉnh để rút ngắn thời gian, tăng tính chủ động và nâng cao trách nhiệm quản lý tại chỗ.

Đồng chí cũng nêu rõ, thủ tục hành chính và chuyển đổi số trong lĩnh vực cấp Giấy phép Môi trường còn chậm. Phần lớn hồ sơ vẫn được xử lý thủ công, doanh nghiệp phải nộp bản giấy, đi lại nhiều lần. Hệ thống dữ liệu cấp phép chưa được kết nối với Hệ thống thông tin môi trường (VEMIS) và hệ thống quan trắc tự động, khiến việc giám sát, cảnh báo vi phạm còn hạn chế. Đồng chí đề nghị cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong toàn bộ quy trình cấp - giám sát - hậu kiểm, tạo nền tảng quản lý hiện đại, minh bạch và thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.

Từ những vấn đề nêu trên, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang kiến nghị Chính phủ cần tập trung thực hiện bốn nhóm giải pháp trọng tâm. Một là, Rà soát, sửa đổi, hoàn thiện khung pháp lý về cấp Giấy phép Môi trường, bảo đảm đồng bộ giữa Luật BVMT 2020, Nghị định 08/2022/NĐ-CP và Nghị định 05/2025/NĐ-CP theo phụ lục III kèm theo báo cáo giám sát của Đoàn giám sát, trong đó quy định rõ hồ sơ, tiêu chí kỹ thuật và thời hạn cấp phép; đơn giản hóa quy trình, biểu mẫu đề xuất cấp GPMT, sự đẩy mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, dựa trên đăng ký tự nguyện và cam kết đáp ứng quy định quy chuẩn về xả thải ra môi trường của chủ đầu tư dự án để cấp GPMT để đẩy nhanh tiến độ cấp GPMT cho các dự án đầu tư, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ nội dung GPMT của cơ quan cấp phép. Hai là, Rà soát, xác định đối tượng thực sự cần kiểm soát bằng công cụ GPMT để quy định đối tượng phải cấp GPMT, không quy định quá rộng như hiện nay, tập trung chỉ nên cấp GPMT đối với các dự án đầu tư thuộc danh mục có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường xả thải ra môi trường quy mô công suất lớn, công suất trung bình theo quy định của Chính phủ. Ba là, Xây dựng công cụ thẩm định cấp GPMT tự động dựa trên dữ liệu điện tử, phân cấp thẩm quyền cấp GPMT cho cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh đối với dự án nhóm B, C và cơ sở sản xuất quy mô vừa, để đẩy nhanh tiến độ cấp GPMT. Bốn là, Đẩy mạnh chuyển đổi số và xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử quốc gia về Giấy phép Môi trường, kết nối với hệ thống quan trắc tự động để giám sát, cảnh báo sớm vi phạm..

Đồng chí nhấn mạnh, việc tháo gỡ kịp thời những vướng mắc trong quy định và quy trình cấp Giấy phép Môi trường sẽ giúp Luật Bảo vệ môi trường thực sự đi vào cuộc sống, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, đồng thời bảo đảm phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, hướng tới tăng trưởng xanh và bền vững.

Bùi Văn Tân

Tin cùng chuyên mục