Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đạt 9,02%. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) đạt 7.460 tỷ đồng, bằng 47,6% kế hoạch, tăng 11,8% so với cùng kỳ. Chỉ số phát triển công nghiệp tăng 13,13% so với cùng kỳ năm 2018. Một số sản phẩm chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ năm 2018, như: Gỗ tinh chế; điện sản xuất; hàng dệt may; xi măng;... Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội đạt 8.012,7 tỷ đồng, bằng 36,4% kế hoạch, tăng 8,7% so với cùng kỳ; giá trị xuất khẩu hàng hóa đạt 40,1 triệu USD, bằng 38,5% kế hoạch, tăng 43,7% so với cùng kỳ; chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,95% so với cùng kỳ năm 2018.
Thu hút 1.248,1 nghìn lượt khách du lịch, đạt 66,9% kế hoạch, tăng 9,4% với cùng kỳ; doanh thu xã hội về du lịch đạt 1.122 tỷ đồng, đạt 65,9% kế hoạch, tăng 8,7% với cùng kỳ. Hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách tiếp tục được chú trọng; khối lượng hàng hóa luân chuyển 409.645 nghìn tấn-km đạt 50,1% kế hoạch; khối lượng hành khách luân chuyển 367.088 nghìn người-km đạt 50,2% kế hoạch; bưu chính viễn thông phát triển khá, tổng số thuê bao điện thoại đạt 615.550 thuê bao, trong đó phát triển mới 41.520 thuê bao.
Sản lượng lương thực vụ Xuân trên 15,3 vạn tấn, đạt 101,8% kế hoạch; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp thủy sản: 3.722,8 tỷ đồng, đạt 44,4% kế hoạch, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2018. Tiếp tục kiểm tra, hướng dẫn phát triển nuôi cá đặc sản bằng lồng; hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, trị bệnh cho cá nuôi trong lồng trên sông Lô và hồ thủy điện; diện tích nuôi thả cá đạt 11.460,6 ha, sản lượng thuỷ sản 3.945,8 tấn, đạt 51,8% kế hoạch.
Thực hiện chính sách hỗ trợ giống cây lâm nghiệp chất lượng cao trên địa bàn tỉnh; thực hiện quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng theo tiêu chuẩn FSC được 3.034,7 ha, nâng diện tích đã cấp toàn tỉnh lên 22.822 ha. Toàn tỉnh trồng được 10.532 ha rừng, đạt 97,1% kế hoạch; khai thác được 393.785 m3 gỗ rừng trồng, đạt 45,8% kế hoạch.
Tiếp tục thực hiện kiên cố hóa kênh mương, bê tông hóa đường giao thông nội đồng, xây dựng nhà văn hóa thôn, bản, tổ dân phố gắn với sân thể thao, khuôn viên; kết quả đã cung ứng cấu kiện bê tông đúc sẵn để thực hiện kiên cố hóa kênh mương được 206 km/275 km đạt 74,9% kế hoạch, thi công lắp đặt được 102,7 km đạt 37,4% kế hoạch; bê tông hóa đường giao thông nội đồng đã cung ứng được 14.863,4 tấn xi măng và 763 ống cống, thi công được 70,3 km/111 km, đạt 63,3% kế hoạch; xây dựng nhà văn hóa thôn, bản, tổ dân phố: đã cung ứng cấu kiện 36 nhà/60 nhà đạt 60% kế hoạch, đang thi công, hoàn thiện 30 nhà, hoàn thành đưa vào sử dụng 03 nhà.
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm đạt 1.007,35 tỷ đồng, bằng 48,4% dự toán; một số khoản thu đạt khá như: Thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên khoáng sản; thu tiền cho thuê mặt đất, mặt nước; thuế thu nhập cá nhân;... Chi ngân sách địa phương về đầu tư phát triển đạt 1.017,98 tỷ đồng, đạt 151,9% dự toán; chi thường xuyên đạt 2.245,73 tỷ đồng, đạt 39,1% dự toán. Triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư và xây dựng năm 2019, kết quả giải ngân vốn đầu tư đến ngày 30/6/2019 đạt 724 tỷ đồng/1.902,3 tỷ đồng, đạt 38% kế hoạch.
Tiếp tục hoàn thiện hồ sơ đo đạc chi tiết, lập hồ sơ giao đất, cấp giấy CNQSD đất cho các hộ gia đình, cá nhân đối với diện tích đất các Công ty nông, lâm nghiệp trả lại địa phương quản lý. Lũy kế công tác cấp giấy CNQSD đất toàn tỉnh cấp được 530.863 giấy chứng nhận với diện tích 260.210 ha (đạt 93,6% diện tích cần cấp); trong đó: đã cấp được 6.030 giấy chứng nhận cho các tổ chức với diện tích 88.884,3 ha (đạt 99,7% diện tích cần cấp); hộ gia đình, cá nhân cấp được 524.833 giấy chứng nhận với diện tích 171.325,7 ha (đạt 90,7% diện tích cần cấp).
Tăng cường công tác bảo vệ môi trường, chú trọng hiệu quả phát triển, hướng tới kinh tế xanh, bền vững; kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm môi trường. Thực hiện các giải pháp hữu hiệu giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường, cảnh quan ở khu vực nông thôn, khu vực đô thị. Chỉ đạo việc tăng cường hiệu quả xử lý, phản hồi các thông tin phản ánh, kiến nghị về ô nhiễm môi trường thông qua đường dây nóng.
Duy trì thực hiện tốt cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính cấp đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp trên hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia; công khai bộ thủ tục hành chính, cung cấp và hướng dẫn doanh nghiệp khai thác; cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 103 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh là 1.600 doanh nghiệp, tổng số vốn đăng ký trên 16.165 tỷ đồng (bao gồm 07 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); tổng số dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư và cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là 278 dự án, với tổng số vốn trên 37.261 tỷ đồng.
Tiếp tục thực hiện sắp xếp lại điểm trường, lớp học gắn với bố trí số lượng người làm việc đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông. Thành lập Trường Phổ thông Tuyên Quang trực thuộc trường Đại học Tân Trào. Tổ chức tốt kỳ thi trung học phổ thông Quốc gia năm 2019. Tổng kết năm học 2018-2019; tổ chức thành công Lễ Tuyên dương học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi năm học 2018-2019...Tăng cường y đức, nâng cao tinh thần thái độ phục vụ và chất lượng chăm sóc, khám, chữa bệnh cho nhân dân, tổ chức khám, chữa bệnh cho 691.514 lượt người; Giải quyết việc làm mới cho 9.704 lao động, đạt 64,8% kế hoạch.
Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm kinh tế của tỉnh tiếp tục phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao, một số chỉ tiêu chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Tập trung các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh, thu hút các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội. Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng; nông, lâm nghiệp cơ bản đạt kế hoạch đề ra và tiếp tục chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa; các ngành dịch vụ có bước phát triển. Các hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên truyền diễn ra phong phú; lĩnh vực giáo dục, y tế, lao động, việc làm tiếp tục có chuyển biến; công tác giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội được quan tâm. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Tuy nhiên, một số sản phẩm công nghiệp đạt thấp so với kế hoạch. Tiến độ giải phóng mặt bằng, thi công một số công trình, dự án chưa đạt yêu cầu. Việc thực hiện một số cơ chế, chính sách, chương trình về nông nghiệp còn chậm; xây dựng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm chủ lực còn hạn chế; kiểm soát, khống chế dịch bệnh gia súc, gia cầm có mặt chưa đạt hiệu quả; diện tích cây mía nguyên liệu không đạt kế hoạch, diện tích mía phế canh lớn. Công tác giải phóng mặt bằng, lập hồ sơ đầu tư một số công trình, dự án chậm. Giá trị xuất khẩu hàng hóa, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội đạt thấp so với kế hoạch. Cải cách thủ tục hành chính có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Việc chấp hành chính sách pháp luật về đất đai, khoáng sản, môi trường ở một số nơi còn hạn chế. Việc nâng cao chất lượng giáo dục của một số trường học hiệu quả chưa cao. Công tác quản lý, khai thác và phát huy hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ sở còn hạn chế. Chất lượng công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân chưa có nhiều chuyển biến; việc khắc phục những khó khăn, bất cập trong quản lý và sử dụng Quỹ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế chưa dứt điểm; công tác quản lý, điều trị, cai nghiện cho người nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện ma túy gặp nhiều khó khăn. Giảm nghèo ở một số nơi chưa bền vững, đời sống của một bộ phận nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Tình hình an ninh, trật tự tại một số địa bàn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp. Khai thác, vận chuyển khoáng sản trái phép vẫn còn xảy ra ở một số nơi. Tai nạn giao thông có giảm nhưng chưa vững chắc.
Nguyên nhân chủ yếu do công tác lãnh đạo, quản lý điều hành ở một số nơi chưa chủ động, linh hoạt, thiếu quyết liệt; cụ thể hóa và tuyên truyền thực hiện một số cơ chế, chính sách còn chậm; việc nắm tình hình và giải quyết khó khăn phát sinh ở cơ sở chưa kịp thời; công tác quản lý địa bàn ở một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu. Năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế; việc phối hợp giữa các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ có lúc, có nơi thiếu chủ động và chưa chặt chẽ. Một số sản phẩm gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ, thời tiết diễn biến phức tạp, khó lường; diện tích mía trồng không đạt kế hoạch chủ yếu do giá thía thấp, một số cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao hơn cây mía, nên nhân dân đã chuyển đổi diện tích trồng; bệnh dịch tả lợn Châu Phi xảy ra trên diện rộng gây ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội. Công tác quản lý, điều trị và cai nghiện cho người nghiện ma túy ở cơ sở cai nghiện ma túy gặp nhiều khó khăn, do thiếu cơ sở vật chất, không có việc làm cho người cai nghiện.