Với 458/459 đại biểu Quốc hội có mặt tham gia biểu quyết tán thành, dự án Luật được thông qua với tỷ lệ 99,78%. Đây tiếp tục là một trong những luật được Quốc hội thông qua với tỷ lệ tán thành rất cao tại Kỳ họp, thể hiện sự đồng thuận cao của các đại biểu Quốc hội đối với việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các luật về tổ chức bộ máy và nghị quyết có liên quan, trực tiếp phục vụ cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị cũng như các chủ trương của Trung ương nhằm thúc đẩy sự phát triển bứt phá của đất nước trong kỷ nguyên mới. Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) gồm 7 chương, 50 điều, giảm 93 điều so với Luật hiện hành, Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 03 năm 2025.
Toàn cảnh phiên họp Quốc hội.
Luật quy định tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính, phân loại đơn vị hành chính, quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cũng như quan hệ công tác giữa chính quyền địa phương với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương; nguyên tắc tổ chức đơn vị hành chính và điều kiện thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính; Thẩm quyền quyết định thành lập, trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới và đổi tên đơn vị hành chính; phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan nhà nước ở địa phương và của chính quyền địa phương các cấp theo hình thức phân quyền, phân cấp. Việc phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương phải bảo đảm các nguyên tắc xác định rõ nội dung và phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn mà chính quyền địa phương được quyết định, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về kết quả; Bảo đảm không trùng lặp, chồng chéo về nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, giữa chính quyền địa phương các cấp và giữa các cơ quan, tổ chức thuộc chính quyền địa phương; Phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và khả năng, điều kiện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp… Bên cạnh đó, việc phân quyền cho chính quyền địa phương các cấp phải được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội, trong đó xác định rõ chủ thể thực hiện, nội dung, phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, bảo đảm các nguyên tắc phân định thẩm quyền và phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp quy định tại Luật này.
Các vị đại biểu Quốc hội tỉnh biểu quyết thông qua Luật.
Về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền giữa chính quyền địa phương các cấp, có ý kiến đề nghị thể chế hoá quan điểm chỉ đạo về “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” trong dự thảo Luật. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến nêu trên và đã chỉnh lý các quy định của dự thảo Luật, bảo đảm bám sát quan điểm chỉ đạo của Đảng về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, bảo đảm phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, “cấp nào giải quyết hiệu quả hơn thì giao nhiệm vụ, thẩm quyền cho cấp đó”, đặc biệt là quy định tại Điều 4 (Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương), Chương III (Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương các cấp) và các quy định tại Chương IV về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền địa phương từng cấp.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện được phân cấp cho cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình hoặc Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới thực hiện liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được giao theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp pháp luật quy định không được phân cấp. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện được phân cấp cho đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý thực hiện liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ mà mình được giao theo quy định của pháp luật để tăng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc quản trị đơn vị và cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, trừ trường hợp pháp luật quy định không được phân cấp.
Luật cũng quy định, HĐND gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. UBND ở cấp chính quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. UBND ở nơi không tổ chức cấp chính quyền địa phương là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và UBND cấp trên trực tiếp.
Luật cũng đã bổ sung thêm một điều (Điều 28) quy định cụ thể về số lượng đại biểu HĐND các cấp trên cơ sở kế thừa quy định của Luật hiện hành; đồng thời bổ sung quy định về số Phó Chủ tịch HĐND, số lượng Ban của HĐND tại các điều khoản tương ứng trong dự thảo Luật để bảo đảm thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật và việc tổ chức công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026- 2031
Đối với cơ cấu tổ chức của UBND, dự thảo Luật được thông qua đã giao Chính phủ quy định cụ thể số lượng Ủy viên UBND các cấp để tạo sự chủ động trong việc điều chỉnh cơ cấu tổ chức của UBND các cấp, phù hợp với chủ trương tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo từng giai đoạn./.